banner
Thứ 6, ngày 29 tháng 3 năm 2024
Kinh nghiệm trong thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2014-2019
5-10-2019

Kon Tum là tỉnh miền núi, biên giới, nằm ở Bắc Tây Nguyên, có diện tích tự nhiên 9.689,61 km, có đường biên giới là 292,522 km; có 09 huyện, 01 thành phố với 102 xã, phường thị trấn, gồm 874 thôn, tổ dân phố. Dân số toàn tỉnh đến năm 2018 có 543.694 người, với 30 dân tộc, trong đó đồng bào DTTS là 289.151 người, chiếm 53,18% dân số toàn tỉnh.

Với vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái, tỉnh Kon Tum có nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên đất đai để trồng cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây dược liệu; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến, chăn nuôi đại gia súc, phát triển thuỷ điện, khai thác khoáng sản và phát triển du lịch. Đồng bào các DTTS trong tỉnh có truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng, giúp đỡ lẫn nhau; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; mỗi dân tộc đều có bề dày truyền thống văn hóa đặc sắc riêng, tạo nên sự phong phú, đa dạng bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam nói chung, tỉnh Kon Tum nói riêng.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của tỉnh được giữ vững, kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi từng bước ổn định và phát triển, kết cấu hạ tầng được cải thiện rõ rệt, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS không ngừng được nâng lên.

Kết quả và những hạn chế sau 5 năm thực hiện công tác dân tộc giai đoạn 2014-2019:

Giai đoạn 2014-2019, tổng huy động vốn đầu tư cho vùng DTTS từ nguồn Ngân sách Trung ương, Ngân sách địa phương hỗ trợ có mục tiêu (bao gồm vốn Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới) và vốn trái phiếu Chính phủ trên địa bàn tỉnh Kon Tum là 11.812 tỷ đồng.

Theo đó Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn tỉnh (GRDP) hàng năm tăng trưởng tương đối khá, GRDP 6 tháng đầu năm 2019 đạt 15.654 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 9,05% so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 29,8 triệu đồng năm 2014 lên 37,49 triệu đồng năm 2018 và đạt khoảng 40,66 triệu đồng năm 2019. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội đảm bảo. Các chỉ tiêu kinh tế- xã hội khác về cơ bản đều hoàn thành và vượt kế hoạch giao hàng năm và ước thực hiện kế hoạch 5 năm.

Cầu treo đi vào khu sản xuất tại Kon Brẫy và Kon Chốt, xã Đăk Tờ Lung, huyện Kon Rẫy được hỗ trợ từ nguồn vốn Chương trình 135 năm 2019

Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội được đẩy mạnh đầu tư xây dựng, nhất là tại ba vùng kinh tế động lực. Hệ thống giao thông được đầu tư, nâng cấp; các công trình, cụm công trình thủy lợi được sửa chữa, đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất của Nhân dân; hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao, du lịch... được chú trọng đầu tư.

Cùng với phát triển kinh tế, công tác giảm nghèo bền vững cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tổng nguồn lực huy động thực hiện công tác giảm nghèo trên địa bàn vùng dân tộc miền núi giai đoạn 2014-2018 khoảng 6.168,60  tỷ đồng. Nhờ thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, nhiệm vụ, giải pháp về công tác giảm nghèo nên tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc miền núi giảm khá nhanh, đến cuối năm 2018, tổng số hộ nghèo toàn tỉnh còn 22.851 hộ, chiếm tỷ lệ 17,29% tổng số hộ. Bình quân tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 4-5% giai đoạn 2014-2015 và 3,58%/năm giai đoạn 2016-2018; trong đó bình quân tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS và  miền núi giảm 6,05%/năm.

Phong trào xây dựng nông thôn mới được quan tâm đẩy mạnh, tổng nguồn lực huy động xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015 đến 6 tháng đầu năm 2019 là 1.378,042 tỷ đồng. Cơ sở hạ tầng và bộ mặt nông thôn có nhiều chuyển biến, nhất là về giao thông nông thôn; đã xuất hiện nhiều cách làm hay, sáng tạo về xây dựng mô hình sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Đến nay, có 18 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 20% tổng số xã toàn tỉnh (tăng 15 xã so với năm 2014). Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân/xã 12,6 tiêu chí, tăng 4 tiêu chí so với năm 2014.

Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh từng bước được nâng lên. Hệ thống trường, lớp trên địa bàn tỉnh không ngừng được củng cố, đặc biệt là trường chuyên biệt dành cho học sinh DTTS, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia tăng. Chất lượng giáo dục các cấp học được nâng lên, đặc biệt là giáo dục học sinh DTTS, công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; các chính sách dân tộc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được triển khai đầy đủ, kịp thời và phát huy tác dụng.

Mạng lưới y tế từng bước được sắp xếp theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Chất lượng khám, chữa bệnh, tinh thần, thái độ phục vụ của đội ngũ y, bác sỹ ngày càng được nâng lên. Hạ tầng cơ sở và trang thiết bị khám, chữa bệnh được đầu tư, nâng cấp. Có 79,6% số xã được công nhận đạt Bộ tiêu chí quốc gia y tế xã giai đoạn 2011-2020; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 90,80% năm 2018; 100% thôn, tổ dân phố có nhân viên y tế; thực hiện tốt các chương trình, chính sách y tế đối với người dân.

Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao chuyển biến tốt. Bản sắc văn hóa truyền thống, phát huy tiếng nói, chữ viết của các DTTS và các di tích cách mạng từng bước được bảo tồn, phát huy.

Công tác thông tin, tuyên truyền ở vùng đồng bào DTTS và miền núi được chú trọng hoàn thiện và nâng cao, 100% hộ dân thuộc địa bàn huyện nghèo, xã nghèo được tiếp cận, cung cấp thông tin, góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chính sách dân tộc trên địa bàn.

Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom, xử lý ở đô thị đạt 93%; tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh năm 2019 đạt 88%, tăng 12,2% so với năm 2014.

Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi thường xuyên được xây dựng, củng cố và ngày càng phát triển, tỷ lệ cán bộ, cán bộ nữ là người DTTS tham gia cấp ủy, chính quyền, HĐND các cấp ngày càng tăng. Đến nay 874/874 thôn, làng, tổ dân phố trong toàn tỉnh đã có tổ chức Đảng, đảng viên; tổ chức mặt trận, các đoàn thể; toàn tỉnh có 8.469 đảng viên là người DTTS, chiếm 30,54% so với tổng số đảng viên toàn tỉnh. Tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên vào các tổ chức chính trị - xã hội tăng khá: Hội Cựu chiến binh đạt 86,11%; Hội Liên hiệp Phụ nữ đạt 76,5%; Hội Người Cao tuổi đạt 77,5%; Hội Nông dân đạt 74,4%; Đoàn viên Công đoàn đạt 89,1%; Đoàn Thanh niên 33,2%; Hội Liên hiệp Thanh niên đạt 45,4%.

Đạt được những thành tựu, kết quả như trên là do có sự quan tâm thường xuyên, sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS và miền núi, đặc biệt là những đóng góp quan trọng của đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Với tinh thần đoàn kết, phát huy nội lực, vượt qua những khó khăn, đồng bào các DTTS trên địa bàn tỉnh đã tích cực thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do các cấp, các ngành phát động; cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách của Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó góp phần quan trọng vào những kết quả, thành tựu mà tỉnh đã đạt được trong giai đoạn vừa qua.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Kon Tum vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định. Cụ thể là:

Kinh tế, xã hội vùng đồng bào DTTS tuy đã có bước phát triển nhưng chưa toàn diện; đời sống của đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở khu vực III, II và các làng đồng bào DTTS ở xung quanh khu vực thành phố, thị trấn. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nguồn nhân lực của tỉnh còn thiếu. Hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến chưa nhiều.

Kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo là người DTTS còn cao.

Công tác xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục còn khó khăn. Mạng lưới y tế hoạt động hiệu quả chưa cao.

Việc triển khai thực hiện một số chương trình, chính sách dân tộc giai đoạn 2016-2020 còn có những khó khăn, bất cập.

Công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào DTTS chưa tạo được sự chuyển biến mạnh. An ninh nông thôn còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Tình trạng khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép còn xảy ra nhưng chưa được ngăn chặn triệt để. 

Việc thực hiện Quyết tâm thư tại Đại hội đại biểu các DTTS lần thứ II năm 2014 có 11 chỉ tiêu, nhiệm vụ chưa đạt được kế hoạch đề ra.

Những hạn chế, yếu kém trên được xác định bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó tập trung chủ yếu ở một số vấn đề, đó là:

Một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức về công tác dân tộc, vị trí, vai trò của vùng dân tộc và miền núi trong phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh chưa sâu, chưa kỹ, nên quá trình triển khai thực hiện hiệu quả chưa cao. Một bộ phận đồng bào DTTS chưa chủ động, nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo, còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng; tỷ lệ tái nghèo trong đồng bào DTTS còn cao.

Nhu cầu về cơ sở hạ tầng lớn trong khi nguồn lực thực hiện chính sách còn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế dẫn đến việc một số chính sách được ban hành nhưng không được phân bổ vốn để thực hiện.

Hệ thống các chương trình, dự án, chính sách dân tộc nói riêng và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo trong xây dựng và thực hiện chính sách.

Công tác quản lý, triển khai thực hiện các chương trình, dự án, chính sách dân tộc chưa đồng bộ, việc hướng dẫn chưa được toàn diện, có lúc, có nơi chưa sâu sát, kịp thời; còn có sự chồng chéo trong việc triển khai thực hiện các chương trình chính sách.

Để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém, nhằm phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, thu hẹp khoảng cách phát triển, tiếp tục thực hiện công tác dân tộc trong thời gian tới, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp:

Một là, Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng; nâng cao nhận thức cho đồng bào các DTTS về thành tựu kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được trong thời gian qua; những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh trong những năm tới; làm cho Nhân dân nhận thức đúng đắn các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào DTTS, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không để kẻ xấu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Công tác tuyên truyền phải được tiến hành bằng nhiều hình thức thích hợp để đồng bào DTTS hiểu và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hai là, Tập trung triển khai đồng bộ và huy động tối đa các nguồn lực đầu tư để lồng ghép thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc trong vùng đồng bào DTTS. Trong đó tập trung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên các lĩnh vực phát triển hạ tầng cơ sở, thông tin truyền thông, y tế, văn hóa, giáo dục-đào tạo; có giải pháp giải quyết cơ bản vấn đề đất ở, đất sản xuất; đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho cộng đồng, hộ dân cư quản lý. Chủ động chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển sản xuất, lựa chọn các loại giống, cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao, có giá trị kinh tế, nâng cao thu nhập và có cơ chế đầu ra cho sản phẩm; khuyến khích thu hút đầu tư vào vùng dân tộc và miền núi; hỗ trợ đồng bào phát huy tiềm năng, thế mạnh, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất cây trồng, vật nuôi phù hợp, tạo sản phẩm hàng hóa, nâng cao thu nhập để thoát nghèo bền vững, làm giàu chính đáng.

Ba là, Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách thủ tục hành chính, khai thác tối đa lợi thế cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư vào những vùng có đông đồng bào DTTS, đồng thời khuyến khích và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tại chỗ, nhằm tạo việc làm ổn định, nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS trên địa bàn. Khuyến khích và đa dạng hóa hình thức đào tạo nghề theo yêu cầu của thị trường lao động, chú trọng đào tạo và cung ứng lao động kỹ thuật làm việc trong các khu công nghiệp; thực hiện tốt hơn chính sách về dạy nghề cho lao động nông thôn, trong đó có lao động là người DTTS. Phát triển mạnh dịch vụ cung ứng lao động cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, gắn với đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động.

Bốn là, Tiếp tục huy động nguồn lực đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất; nâng cao trình độ các mặt cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên để đáp ứng nhu cầu dạy và học của học sinh những vùng có đông đồng bào DTTS. Trước mắt cần tiến hành rà soát, sắp xếp lại hệ thống trường, lớp đảm bảo yêu cầu dạy và học của học sinh DTTS; củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cấp giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở; duy trì và nâng cao chất lượng xóa mù chữ cho người lớn. Triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách về giáo dục dân tộc, thực hiện tốt các giải pháp để phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở, định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông là người DTTS.

Năm là, Tiếp tục đầu tư, củng cố mạng lưới y tế cấp xã; đào tạo đội ngũ cán bộ y tế thôn, làng đạt chuẩn. Nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; thực hiện tốt chế độ bảo hiểm y tế và các chương trình y tế quốc gia, nhất là chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi; tăng cường công tác tuyên truyền nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS; đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng, vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh môi trường, hạn chế dịch bệnh, góp phần nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực vùng DTTS.

Sáu là, Tiếp tục đẩy mạnh phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; hoàn thiện cơ bản các thiết chế văn hóa cơ sở, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Xây dựng các hình thức hoạt động thể dục thể thao quần chúng ở cấp cơ sở phù hợp với các dân tộc, đối tượng và điều kiện cụ thể. Tiếp tục quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hệ thống viễn thông, phát thanh, truyền hình đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.

Bảy là, Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, bảo đảm nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng ở vùng đồng bào DTTS. Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị và cán bộ làm công tác dân tộc ở các cấp, các ngành. Triển khai, từng bước đổi mới và nhân rộng các mô hình, điển hình các cơ quan, đơn vị kết nghĩa xây dựng xã theo Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 19-8-2016 của Tỉnh ủy (khóa XV) về tiếp tục xây dựng các xã đặc biệt khó khăn trong tình hình mới”. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội cho phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng dân tộc. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do các cấp, các ngành phát động. Chú trọng công tác phát triển đảng viên là người DTTS gắn với xây dựng và phát huy hiệu quả vai trò của lực lượng cốt cán, già làng, trưởng thôn, người có uy tín; góp phần củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, đảm bảo nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng ở vùng đồng bào DTTS đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tám là, Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh; xây dựng đường biên giới Việt Nam – Lào, Việt Nam- Campuchia hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Phát động sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong vùng dân tộc và miền núi. Chủ động ngăn chặn các hoạt động chống phá khối đại đoàn kết thông qua “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa gạt, lôi kéo, kích động đồng bào các DTTS. Thực hiện có hiệu quả hoạt động phòng chống tội phạm, ngăn chặn hoạt động truyền đạo trái pháp luật. Hạn chế tối đa các tệ nạn xã hội và các hủ tục, tập quán lạc hậu.

Nguyễn Thanh Hưng

Số lượt xem:4534
Bài viết liên quan:
THÔNG BÁO
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH KON TUM
 
 

LIÊN KẾT WEBSITE

Trang thông tin điện tử Ban Dân tộc thuộc Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum 
Quản lý và nhập tin: Ban Dân tộc, số 163 - Bà Triệu - Thành phố Kon Tum - Tỉnh Kon Tum 
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Đinh Quốc Tuấn - Trưởng Ban. 
Điện thoại: 02603.866.127 - Fax: 02603.866.127 - Email: bandantoc-kontum@chinhphu.vn.
                   Ghi rõ nguồn "Trang Thông tin điện tử Ban Dân tộc tỉnh Kon Tum" hoặc "bandantoc.kontum.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ nguồn này. 

3742435 Tổng số người truy cập: 46 Số người online:
Phát triển:TNC